Lịch sử của ngôn ngữ Tiếng Anh
- The Synesthetes
- Jul 10, 2020
- 5 min read
THE HISTORY OF ENGLISH
Ngày nay, tiếng Anh là ngôn ngữ được nhiều người nói nhất, và là ngôn ngữ bản địa được nói nhiều thứ ba trên thế giới, xếp sau tiếng Trung và tiếng Tây Ban Nha. Đây cũng là ngôn ngữ thứ hai được học nhiều nhất và đồng thời là ngôn ngữ chính thống hoặc một trong số những ngôn ngữ chính thống ở gần 60 quốc gia có chủ quyền. Số người học tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai còn nhiều hơn người bản địa và ước tính có tổng cộng hơn hai tỷ người nói tiếng Anh. Nó là ngôn ngữ bản địa chủ yếu ở Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Ca-na-đa, Úc, Niu Di-Lân, Ai-len và cũng được sử dụng rộng rãi ở một vài vùng lãnh thổ ở Ca-ri-bê, châu Phi và Nam Á. Tiếng Anh cũng là một trong hai ngôn ngữ chính thức của Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Âu và rất nhiều tổ chức quốc tế khu vực và toàn cầu khác. Vậy ngôn ngữ này xuất phát từ đâu?
Dạng đầu tiên của tiếng Anh được gọi là tiếng Anh cổ hay Anglo-Saxon (550-1066), nó phát triển từ một bộ hệ ngôn ngữ Đông Đức, thường được nhóm thành Anglo-Frisian hay Bắc Hải Đức, được nói đầu tiên dọc bờ biển Frisia, Lower Saxony và Nam Jutland bởi nhóm người Đức được biết đến trong lịch sử là người Anglo Saxon và Jute. Từ thế kỷ thứ V, người Anglo-Saxon định cư ở Anh dưới danh nghĩa khu vực kinh tế thuộc La Mã và chính quyền đã sụp đổ. Đến thế kỷ thứ VII, ngôn ngữ Đức của người Anglo-Saxon trở nên thịnh hành ở nước Anh, thay thế cho ngôn ngữ Anh La Mã (43-409): ngôn ngữ Britton thông thường, một ngôn ngữ Celtic, và ngôn ngữ Latin, được mang đến nước Anh bởi sự chiếm đóng của La Mã. Tiếng Anh cổ là một ngôn ngữ riêng biệt vô cùng quan trọng từ tiếng Anh hiện đại và gần như không thể cho những người nói tiếng Anh không có học thức ở thế kỷ 21 có thể hiểu được. Ngữ pháp của nó tương đồng với tiếng Đức hiện đại và họ hàng gần nhất của nó là tiếng Frisian cổ. Danh từ, tính từ, đại từ và động từ có nhiều hậu tố và dạng biến tố hơn, và thứ tự từ thoải mái hơn tiếng Anh hiện đại. Trong tiếng Anh hiện đại có các dạng cấu trúc trong đại từ (he, him, his) và một vài biến tố động từ (speak, speaks, speaking, spoke, spoken), nhưng tiếng Anh cổ đại cũng có cấu trúc hậu tố, và động từ có nhiều hậu tố con và số lượng hơn.
Từ thế kỉ VIII đến XII, tiếng Anh cổ đại dần chuyển sang tiếng Anh trung đại thông qua tiếp xúc ngôn ngữ. Tiếng Anh trung đại thường được tuỳ tiện xác định như là mở đầu với sự chinh phục nước Anh bởi người chinh phục tên là William năm 1066, nhưng nó phát triển mạnh hơn trong giai đoạn 1200-1450. Ban đầu, làn sóng xâm chiếm của tộc người Norse ở phía bắc các hòn đảo Anh trong thế kỉ VIII và IX đẩy tiếng Anh cổ đại vào tiếp xúc mãnh liệt với tiếng Norse cổ đại một ngôn ngữ bắc Đức. Sức ảnh hưởng của tiếng Norse mạnh nhất trong các loại tiếng Anh cổ phía Đông Bắc được nói ở vùng Danelaw quanh vùng York, trung tâm của sự thực dân hoá của người Norse; ngày nay những đặc điểm này vẫn xuất hiện cụ thể trong tiếng Scotland và Bắc Anh. Tuy nhiên, trung tâm của tiếng Anh bị Norse-hoá dường như bắt đầu ở vùng trung du xung quanh Lindsey, và sau năm 920 khi vùng Lindsey được sáp nhập trở lại vào chính thể Anglo-Saxon, đặc điểm của tiếng Norse lan từ đó vào các loại tiếng Anh mà không có tiếp xúc trực tiếp với người nói tiếng Norse. Với sự xâm chiếm nước Anh của người Norman năm 1066, tiếng Anh cổ bị Norse-hoá bây giờ đã bị bắt buộc tiếp xúc với tiếng Pháp cổ, cụ thể là với hệ ngôn ngữ Norman cổ. Ngôn ngữ Norman ở nước Anh phát triển sau cùng thành tiếng Anglo-Norman.
Giai đoạn tiếp theo trong lịch sử của tiếng Anh là tiếng Anh cận đại (1500-1700). Tiếng Anh cận đại được biểu thị bởi sự chuyển đổi lớn về nguyên âm (1350-1700), đơn giản hoá biến tố và đặt tiêu chuẩn ngôn ngữ. Tiếng Anh bắt đầu lớn mạnh về uy thế, cùng với tiếng Pháp Norman, đương lúc cai trị của vua Henry V. Vào khoảng năm 1430, toà đại pháp Anh ở Westminster bắt đầu sử dụng tiếng Anh trong những tài liệu chính thống, và một dạng tiêu chuẩn mới của tiếng Anh trung đại, được biết đến là tiêu chuẩn toà đại pháp, phát triển từ hệ ngôn ngữ Luân-đôn và vùng trung du phía Đông. Năm 1476, William Caxton đưa máy in ra công chúng ở Anh và bắt đầu xuất bản những cuốn sách in đầu tiên ở Luân-đôn, mở rộng sức ảnh hưởng của loại tiếng Anh này. Văn học giai đoạn cận đại bao gồm những công trình của William Shakespeare và bản dịch Kinh thánh uỷ thác bởi vua James I.
Cuối thế kỷ XVIII, Đế quốc Anh đã đưa tiếng Anh ra thế giới thông qua thuộc địa và sự độc tài về địa lý và chính trị. Kinh tế, khoa học và công nghệ, ngoại giao, hội hoạ và giáo dục chính quy đều góp phần đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ toàn cầu đúng nghĩa. Tiếng Anh cũng khiến cho giao tiếp quốc tế dễ dàng hơn. Nước Anh tiếp tục lập thêm nhiều thuộc địa mới, và những nơi này sau đó phát triển những tiêu chuẩn riêng cho mảng nói và đọc. Tiếng Anh được tiếp nhận ở Bắc Mĩ, châu Phi, châu Đại Dương và nhiều vùng khác. Khi những nước đó có được dự độc lập về chính trị, một vài quốc gia mới độc lập mà đã có những ngôn ngữ bản địa đa dạng lựa chọn tiếp tục sử dụng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính thống để tránh những khó khăn chính trị và những thứ khác vốn có trong việc coi trọng một ngôn ngữ bản địa bất kỳ hơn những cái khác. Trong thế kỷ XX sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ trong phát triển kinh tế và văn hoá và địa vị cường quốc của nước đó sau thế chiến thứ hai, cùng với việc truyền hình BBC phủ sóng bằng tiếng Anh trên toàn cầu và các truyền hình khác, khiến cho tiếng Anh mở rộng nhanh hơn. Ở thế kỷ XXI, tiếng Anh đang được nói và viết rộng rãi hơn bất kỳ ngôn ngữ nào khác.
Tổng hợp & Phiên dịch: Nguyễn Thành Nam, HSGS
Comments